I. THOÁI HÓA KHỚP- NỖI ÁM ẢNH CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
Thoái hóa khớp là bệnh rất phổ biến ở người cao tuổi, cũng là căn bệnh gây tàn phế cao nhất hiện nay.
Khớp bao gồm sụn khớp và dịch khớp có vai trò làm giảm sự ma sát giữa hai đầu xương gắn nhau ở khớp. Từ đó, giúp các chi, cột sống hoạt động hàng ngày mà không bị tổn thương. Tuy nhiên, theo thời gian, lớp sụn khớp dần bị thoái hóa, trở nên sần sùi và bào mòn khiến cho chức năng của khớp bị suy giảm, không thể vận hành tốt. Đồng thời, các mô xung quanh cũng có thể bị tổn thương, dịch nhầy bôi trơn tại khớp bị suy giảm, phần xương dưới sụn cũng bắt đầu biến dạng, xơ hóa và xuất hiện các vết nứt nhỏ. Tình trạng này gọi là thoái hóa khớp.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), giai đoạn từ năm 2011 đến 2020 được Tổ chúc Y tế Thế giới (WHO) xem là “Thập niên xương khớp”. Riêng ở Việt Nam, theo ước tính trong một nghiên cứu về tình trạng thoái hóa khớp cho thấy tình trạng này đang ngày càng phổ biến và có dấu hiệu trẻ hóa. Thống kê cho thấy có 30% người trên tuổi 35, 60% người trên tuổi 65 và 85% người trên tuổi 85 gặp vấn đề về thoái hóa khớp.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY THOÁI HÓA KHỚP
Nguyên nhân nguyên phát
Thoái hóa khớp xảy ra liên quan đến độ tuổi. Hàm lượng nước trong sụn khớp tăng dần theo tuổi tác, điều này là hàm lượng và chất lượng Protid trong sụn giảm dẫn đến việc sụn khớp bắt đầu thoái hóa. Vận động trong thời gian dài khiến phần sụn này bị tổn thương, gây nên tình trạng nứt, bong thậm chí là tiêu biến sụn, gia tăng ma sát giữ khớp gây nên đau và thoái hóa.
Yếu tố di truyền cũng là nguyên nhân gây thoái hóa khớp. Những người mà có người trong gia đình quan hệ cận huyết như bố mẹ đẻ, anh chị em ruột đã bị thoái hóa khớp gối thì họ cũng có nguy cơ cao mắc.
Nguyên nhân thứ phát
• Béo phì: Thừa cân làm tăng nguy cơ thoái hóa ở khớp gối, hông và cột sống do béo phì có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống xương khớp, khiến cho hệ thống xương khớp phải chịu áp lực rất lớn và rất dễ bị tổn thương.
• Dinh dưỡng: Thiếu vitamin D cũng góp phần gây nên thoái hóa khớp
• Chấn thương: Đây được xem là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tình trạng viêm khớp thoái hóa.
• Lao động nặng và làm việc không đúng tư thế: Với những đối tượng thường xuyên phải lao động nặng, lao động quá sức, chẳng hạn như mang vác vật nặng,… hệ thống xương khớp của họ phải liên tục chịu những áp lực quá lớn và dễ bị tổn thương, đồng thời tăng nguy cơ thoái hóa các khớp.
Trẻ em phải lao động nặng quá sớm, khi hệ thống xương đang trong giai đoạn phát triển, có thể ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển hệ xương khớp. Trong tương lai, các em có nguy cơ cao phải đối mặt với tình trạng thoái hóa xương khớp từ rất sớm.
Ngoài ra, tư thế sinh hoạt và lao động cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống xương khớp. Chạy nhảy quá nhiều, ngồi làm việc hay học tập sai tư thế trong suốt một thời gian dài, ngồi hay đứng quá lâu mà không thay đổi tư thế cũng có thể gây áp lực lên các khớp và dễ dẫn đến thoái hóa khớp, nhất là đối với nhân viên văn phòng hay công nhân xưởng máy,…
• Ảnh hưởng bởi những bệnh xương khớp khác: Những người bị viêm khớp dạng thấp có nhiều khả năng bị thoái hóa khớp. Ngoài ra, một số tình trạng hiếm gặp, chẳng hạn như thừa sắt hoặc dư thừa hormone tăng trưởng, làm tăng cơ hội phát triển bệnh.
III. TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA THOÁI HÓA KHỚP
Thoái hoá khớp thường bắt đầu từ từ, thường bắt đầu với một hoặc vài khớp.
Đau là triệu chứng sớm nhất của thoái hóa khớp, đôi khi được mô tả là nhức nhối sâu bên trong. Đau thường tăng lên ở những tư thế chịu trọng lực và giảm khi nghỉ ngơi nhưng cuối cùng có thể đau liên tục.
Cứng khớp sau khi ngủ dậy hoặc không hoạt động nhưng kéo dài < 30 phút và giảm đi khi vận động. Khi thoái hóa khớp tiến triển, cử động của khớp bị hạn chế, ấn đau và cảm giác lạo xạo hoặc cảm giác tiếng kèn kẹt phát sinh.
Phì đại sụn giai đoạn đầu, sau đó là phản ứng xương, dây chằng, gân, bao khớp và hoạt dịch đáng kể, cùng với lượng tràn dịch khớp không viêm thay đổi, cuối cùng dẫn đến đặc điểm phì đại khớp của thoái hóa khớp.
Đau khi sờ và đau khi vận động thụ động là những dấu hiệu tương đối muộn. Co cứng cơ và co rút làm đau tăng. Chèn ép cơ học bởi dị vật nội khớp hoặc mảnh sụn chêm bất thường vị trí có thể gây kẹt khớp. Sự biến dạng và các lỏng lẻo cũng có thể xuất hiện.
Thoái hóa khớp thường tiến triển không thường xuyên nhưng đôi khi dừng lại mà không dự đoán được.
• Thoái hóa cột sống cổ và cột sống thắt lưng có thể dẫn đến bệnh tủy sống hoặc bệnh rễ thần kinh. Tuy nhiên, các dấu hiệu lâm sàng của tổn thương tủy sống thường nhẹ. Hẹp ống sống thắt lưng có thể gây đau lưng hoặc đau chân tăng lên khi đi bộ (đau cách hồi thần kinh, đôi khi được gọi là giả đau cách hồi) hoặc khi ưỡn lưng. Bệnh lý rễ thần kinh có thể nổi trội hơn nhưng ít phổ biến hơn vì rễ thần kinh và hạch được bảo vệ tốt. Thỉnh thoảng có thể xảy ra thiếu máu động mạch đốt sống, nhồi máu tủy sống và khó nuốt do chèn ép thức quản bởi gai xương cột sống cổ. Các triệu chứng và dấu hiệu do thoái hóa khớp nói chung cũng có thể xuất phát từ xương dưới sụn, cấu trúc dây chằng, màng hoạt dịch, bao hoạt dịch quanh khớp, bao khớp, cơ, gân, đĩa đệm và màng xương, tất cả đều nhạy cảm với đau. Áp lực tĩnh mạch có thể tăng trong tủy xương dưới sụn và gây đau (đôi khi được gọi là đau xương do thiếu máu).
• Thoái hóa khớp háng gây mất dần phạm vi vận động và thường có triệu chứng nhất trong khi thực hiện các hoạt động chịu sức nặng. Có thể đau ở vùng bẹn hoặc mấu chuyển lớn hoặc lan tới đùi và đầu gối.
• Thoái hóa khớp gối gây mất sụn (mất sụn chêm giữa ở 70% số trường hợp). Các dây chằng lỏng lẻo và khớp trở nên mất vững, với đau do tổn thương dây chằng và gân.
• Thoái hóa khớp do mòn gây ra viêm màng hoạt dịch và kén hoạt dịch ở bàn tay. Chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp ngón gần hoặc xa. Khớp bàn-ngón của ngón tay cái bị thương tổn ở 20% trường hợp thoái hóa khớp bàn tay, nhưng khớp bàn-ngón tay và cổ tay thường không bị. Hiện nay, không chắc chắn liệu thoái hóa do mòn giữa các đốt có phải là một biến thể của thoái hóa khớp bàn tay hoặc liệu tình trạng này có đại diện cho một thực thể riêng biệt, chẳng hạn như bệnh vi tinh thể (ví dụ: viêm khớp canxi pyrophosphate) hay không.
IV. ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP
• Liệu pháp không dùng thuốc
Giảm cân ở mức độ vừa phải trên bệnh nhân thừa cân thường làm giảm đau và thậm chí có thể làm giảm sự tiến triển của thoái hóa khớp gối. Các kỹ thuật phục hồi chức năng được bắt đầu tốt nhất trước khi xuất hiện hạn chế vận động.
Các bài tập duy trì phạm vi vận động và tăng khả năng hấp thụ lực căng của gân và cơ trong quá trình vận động khớp. Tập thể dục đôi khi có thể ngăn chặn hoặc thậm chí phục hồi thoái hóa khớp hông và khớp gối. Tập thể dục thể thao được khuyến khích vì chúng tránh được stress lên khớp. Tập thể dục kéo giãn nên được thực hiện hàng ngày. Bất động trong bất kỳ thời gian kéo dài nào cũng có thể thúc đẩy sự co cứng và làm trầm trọng thêm giai đoạn lâm sàng. Tuy nhiên, một vài phút nghỉ ngơi có thể giúp nếu cân bằng với tập thể dục và sử dụng khớp.
• Liệu pháp điều trị bằng thuốc
Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), bao gồm thuốc ức chế chọn lọc cyclooxygenase-2 (COX-2) hoặc coxib, có thể được cân nhắc dùng nếu bệnh nhân bị đau dai dẳng hoặc có dấu hiệu viêm (ví dụ: đỏ, nóng). NSAIDs có thể được sử dụng đồng thời với các thuốc giảm đau khác (ví dụ: tramadol, hiếm khi là opioid) để làm giảm triệu chứng hiệu quả hơn. Thuốc NSAIDs tại chỗ có thể có tác dụng tốt cho các khớp nông, như bàn tay và đầu gối. NSAIDs tại chỗ có giá trị đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi, vì tiếp xúc NSAIDs toàn thân giảm, giảm thiểu nguy cơ bị tác dụng bất lợi của thuốc. Bảo vệ dạ dày nên được xem xét khi sử dụng NSAIDs thường xuyên ở bệnh nhân lớn tuổi.
Thuốc giãn cơ chẳng hạn như cyclobenzaprine, metaxalone và methocarbamol (thường ở mức liều thấp) đôi khi làm giảm đau do cơ bị căng do cố gắng hỗ trợ các khớp bị thoái hóa khớp, tuy nhiên vẫn còn thiếu bằng chứng rõ ràng trừ khi đồng thời có nhạy cảm ở trung tâm. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân cao tuổi, các thuốc này có thể gây ra nhiều tác dụng bất lợi hơn là tác dụng giảm nhẹ.
Corticosteroid uống không nên dùng kéo dài. Corticosteroid nội khớp có thể giúp giảm đau trong thời gian ngắn và tăng tính linh hoạt khớp ở một số bệnh nhân; tuy nhiên, thường xuyên tiêm corticosteroid vào khớp làm tăng nguy cơ mất sụn.
THỰC PHẨM BẢO VỆ SỨC KHỎE JOINT PLUS- NHỮNG TIẾN BỘ MỚI TRONG PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Joint plus với thành phần Chondroitin sulfate, Acid hyaluronic, vitamin D và vitamin E là thực phẩm chức năng dạng dung dịch uống giúp phòng ngừa và điều trị thoái hóa khớp.
• Đầu tiên là Acid hyaluronic. Acid hyaluronic luôn là thành phần quan trọng trong các sản phẩm điều trị thoái hóa khớp. Acid hyaluronic là thành phần thiết yếu của dịch khớp, có tác dụng giúp cho các khớp xương vận động được dễ dàng, giúp ổn định độ nhớt của dịch khớp, có chức năng bôi trơn khớp do đó giúp khớp chịu được va đập. Khi khớp bị thoái hóa, lượng Acid hyaluronic bị giảm đi và không thể phục hồi sẽ dẫn đến tình trạng khớp bị đau, khó vận động. Ở độ tuổi 40 trở đi, khả năng sản xuất Acid hyaluronic đã giảm đi 50%, ở độ tuổi trên 60 cơ thể chỉ cung cấp được 10% lượng Acid hyaluronic cần thiết. Vì vậy, việc bổ sung Acid hyaluronic là quan trọng trong phòng ngừa và điều trị thoái hóa khớp.
Do Acid hyaluronic có khối lượng phân tử rất lớn (khoảng 600.000 đến 1.000.000 đơn vị Dalton, lớn hơn rất nhiều phân tử đường thông thường (340 Dalton)). Phân tử lượng của chúng quá lớn để có thể tiêu hóa và chuyển vào các khớp sau khi ăn. Do vậy, trước đây Acid hyaluronic thường dùng để tiêm trực tiếp vào khớp (tiêm nội khớp). Qua đường tiêm, chỉ những khớp được tiêm mới có được sự bôi trơn trớ lại. Nhưng hầu hết các trường hợp mắc bệnh đều bị đau đồng thời ở nhiều khớp khác nhau. Ngoài ra khi sử dụng đường tiêm dễ dẫn đến các biến chứng, nhiễm khuẩn và đòi hỏi phải có bác sĩ chuyên khoa.
Ngày nay, nhờ sự đột phá của công nghệ hiện đại Acid hyaluronic đuợc sản xuất ở dạng thích hợp. Với dạng này, Acid hyaluronic được dùng như các vi chất dinh dưỡng, hấp thu trực tiếp qua đường tiêu hóa, giải phóng vào máu và đi đến khắp nơi trong cơ thể.
Hoạt chất Acid hyaluronic được nhập khẩu từ Công ty BASF SE, Đức- Công ty cung cấp nguyên liệu, hóa chất hàng đầu trên thế giới.
• Thành phần tiếp theo là Chondroitin sulfate. Là thành phần quan trọng tạo nên proteoglycan, chondroitin sulfate là thành phần chính của sụn, tạo ra chức năng chịu nén của sụn. Mất chondroitin sulfat từ sụn là nguyên nhân chính dẫn tới viêm xương khớp. Chondroitin có trong sụn khớp đảm bảo cho sụn mềm dẻo, đảm bảo xương khớp dễ hoạt động và chịu được các trọng lực và sức ép. Chondroitin còn có tác dụng chống viêm khớp, giảm đau khớp, cải thiện chức năng khớp và làm chậm quá trình tiến triển của viêm khớp. Cơ chế tác dụng là bảo vệ khớp bằng cách ức chế các enzyme có vai trò phá hủy sụn và giúp sụn giữ nước, ức chế sự thoái hóa của các enzyme, elastase, hyaluronidase; kích thích tăng hoạt các enzyme có vai trò xúc tác các phản ứng tổng hợp acid hyaluronic (là chất giúp khớp hoạt động tốt), làm tăng hấp thu collagen.
• Thành phần thứ ba là Vitamin D3. Vitamin D3 có hai nguồn: do cơ thể tổng hợp từ tiền chất của vitamin D3 mà nguyên liệu là cholesterol, có ở trong da, dưới tác dụng của tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời, được hoạt hóa thành D3, sau đó được vận chuyển khắp cơ thể và dự trữ ở gan. Nguồn này chiếm 50-70% vitamin D cho cơ thể. Nguồn thứ hai là do các thực phẩm cung cấp.
Vitamin D3 giúp cơ thể sử dụng tốt canxi và phospho để hình thành và duy trì hệ xương răng vững chắc. Nồng độ vitamin D3 trong huyết thanh có liên quan đến bệnh viêm khớp và có thể ảnh hưởng đến quá trình tái tạo sụn khớp. Trong các thử nghiệm lâm sàng, sự thiếu hụt vitamin D3 gây ra các yếu tố nguy cơ đối với bệnh viêm khớp và những người bị giảm độ dày sụn có khả năng bị thiếu vitamin D3.
Các nghiên cứu đã được tiến hành để nghiên cứu tác động của vitamin D3 đối với quá trình thoái hóa và tái tạo sụn khớp một cách cụ thể. Những bệnh nhân đủ vitamin D3 có nguy cơ mắc các bệnh viêm khớp thấp hơn, việc bổ sung đủ vitamin D3 sẽ làm giảm thoái hóa sụn khớp trên ảnh chụp X quang.
• Vitamin E có tác dụng chống oxy hóa mạnh: thu giữ các gốc tự do được sinh ra trong quá trình chuyển hóa. Vitamin E bảo vệ các acid béo không bão hòa nhiều nối đôi và cholesterol trong màng tế bào, bảo vệ hệ thần kinh, làm tăng tuần hoàn máu nên làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, bảo vệ hệ cơ xương và võng mạc mắt.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Joint plus mang nhiều lợi điểm của dạng chế phẩm dung dịch uống so với tiêm nội khớp. Như đã trình bày ở trên, dung dịch uống giúp đưa Acid hyaluronic đến nhiều khớp trong cơ thể thay vì chỉ một khớp nhất định như khi dùng dạng tiêm. Dùng dạng uống cũng giúp tiện lợi hơn trong việc sử dụng, tránh các nguy cơ nhiễm khuẩn khi dùng bằng đường tiêm. Dạng dung dịch uống cũng có thể dùng cho bệnh nhân vừa phẫu thuật nội soi khớp gối.
Ngoài ra, Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Joint plus còn mang nhiều đặc điểm ưu việt khác như: có thể kết hợp với các phương pháp trị liệu khác, không có hoặc có rất ít tác dụng phụ, bảo quản lâu dài, không có chất kích thích, giá cả hợp lý với người dùng.
V. THÔNG TIN SẢN PHẨM
Hoạt chất: Acid Hyaluronic, Chondroitin sulfate, Vitamin D3, Vitamin E.
Công dụng: Hỗ trợ cải thiện sự linh hoạt của khớp, hỗ trợ giảm triệu chứng đau khớp do viêm khớp, thoái hóa khớp
Liều lượng, cách dùng: 10ml/lần, ngày 2 lần
Chống chỉ định: Phụ nữ có thai, cho con bú, người dưới 18 tuổi, người bị dị ứng hải sản, người mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của sản phẩm.
Hạn dùng: 36 tháng kể từ ngày sản xuất
Bảo quản: Nơi khô mát, tránh ánh nắng mặt trời
Quy cách đóng gói: 1 chai 500ml dung dịch uống.
Hỏi & Đáp
Không cần kết hợp với thuốc nào để làm tăng tác dụng và hiệu quả của sản phẩm. Tuy nhiên trong trường hợp bệnh nhân đau cấp, bệnh nhân có thể dùng ngay các thuốc giảm đau trong vài ngày đầu để giảm bớt các triệu chứng đau sau đó mới dùng sản phẩm Joint plus. Thoái hoá khớp là bệnh lý không chỉ biểu hiện ở một khớp mà thường biểu hiện ở nhiều khớp, tuổi càng cao thì tỷ lệ bệnh nhân mắc thoái hóa khớp càng cao. Các khớp thường gặp nhất là cột sống thắt lưng, cột sống cổ, khớp gối, khớp háng, ngoài ra còn có thể gặp ở các đoạn khác của cột sống, các khớp ngón tay. JOINT PLUS với hoạt chất HCC (phức hợp Axít Hyaluronic- Chondroitin) có tác dụng phòng ngừa và điều trị thoái hoá khớp do giúp tái tạo sụn khớp, đảm bảo độ nhớt của dịch khớp. Trường hợp thoái hoá cột sống nên uống JOINT PLUS với liều như các thoái hoá khớp khác: 20 ml/ngày , nên sử dụng từ 2-3 đợt trị liệu liên tiếp để có kết quả. Thưa bác! Hiện nay theo các nghiên cứu mới nhất được công bố thì Chondroitin dạng đơn chất không có tác dụng rõ rệt trong điều trị thoái hoá khớp, còn các thuốc giảm đau chỉ có tác dụng điều trị triệu chứng, các thuốc tiêm trực tiếp vào khớp có hoạt chất là Axit Hyaluronic giống thành phần có trong JOINT PLUS thì chỉ có tác dụng tại khớp được tiêm, tiêm gây đau có thể gây biến chứng nhiễm trùng, do đó cần phải có các BS chuyên khoa và phòng tiêm vô trùng, giá thành cũng tương đối cao. Còn sản phẩm JOINT PLUS với hoạt chất là phức hợp Acd Hyaluronic – Chondroitin đường uống khắc phục được các nhược điểm của dạng tiêm như không gây kích thích tại vị trí tiêm, không gây nhiễm khuẩn. Đồng thời Axit Hyaluronic – Chondroitin có trong sản phẩm JOINT PLUS có thể đi đến mọi khớp trong cơ thể chứ không đơn thuần tại khớp được tiêm. Thông thường các bệnh nhân thoái khớp thường tổn thương nhiều ở các khớp chứ không đơn thuần tại một khớp.
Thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.
Dược sĩ Vũ Thị Hòa, tốt nghiệp Đại học Dược Hà Nội
Đã kiểm duyệt nội dung
Hoàng Tiến (verified owner) –
Hiệu quả sản phẩm rất tốt, tôi rất hài lòng
Mr Nam –
sản phẩm tốt
Chu Tam Quyết –
Sản phẩm rất tốt
Trịnh Minh Đức –
Good
Dinh Khanh Linh –
Good
Nguyễn kiều châm –
Tốt
Vũ Văn Minh –
Tốt
Yen –
Tốt
Yen –
Thuốc tốt